Giới Thiệu Khái Quát Nền Kinh Tế Hàn Quốc

Giới Thiệu Khái Quát Nền Kinh Tế Hàn Quốc

Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiên thanh toán. Tiên tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động này là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này.

Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiên thanh toán. Tiên tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động này là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này.

Các hình thức xuất khẩu chủ yếu

Trên thị trường thế giới, các nhà buôn giao dịch với nhau theo những cách thức nhất định. Ứngvới mỗi phương thức xuất khẩu có đặc điểm riêng. Kỹ thuật tiến hành riêng Tuy nhiên trong thực tế xuất khẩu thường sử dụng một trong những phương thức chủ yếu sau:

Khái niệm trực tiếp là việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức cuả mình.

Trong trường hợp doanh nghiệp tham gia xuất khẩu là doanh nghiệp thương mại không tự sản xuất ra sản phẩm thì việc xuất khẩu bao gồm hai công đoạn:

+ Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu với các đơn vị, địa phương trong nước.

+ Đàm phán ký kết với doanh nghiệp nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền hàng với đơn vị bạn.

Phương thức này có một số ưu điểm là: thông qua đàm phán thảo luận trực tiếp dễ dàng đi đến thống nhất và ít xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc do đó:

+ Giảm được chi phí trung gian do đó làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.

+ Có nhiều điều kiện phát huy tính độc lập của doanh nghiệp.

+ Chủ động trong việc tiêu thụ hàng hoá sản phẩm của mình.

Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì phương thức này còn bộc lộ một số những nhược điểm như:

+ Nếu như không có cán bộ XNK có đủ trình độ và kinh nghiệm khi tham gia ký kết hợp đồng ở một thị trường mới hay mắc phải sai lầm gây bất lợi cho mình.

+ Khối lượng hàng hoá khi tham giao giao dịch thường phải lớn thì mới có thể bù đắp được chi phí trong việc giao dịch.

Như khi tham gia xuất khẩu trực tiếp phải chuẩn bị tốt một số công việc. Nghiên cứu hiểu kỹ về bạn hàng, loại hàng hoá định mua bán, các điều kiện giao dịch đưa ra trao đổi, cần phải xác định rõ mục tiêu và yêu cầu của công việc. Lựa chọn người có đủ năng lực tham gia giao dịch, cần nhắc khối lượng hàng hoá, dịch vụ cần thiết để công việc giao dịch có hiệu quả.

Đây là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị XNK đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, tiến hành làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu do đó nhà sản xuất và qua đó được hưởng một số tiền nhất định gọi là phí uỷ thác.

Hình thức này bao gồm các bước sau:

+ Ký kết hợp đồng xuất khẩu uỷ thác với đơn vị trong nước.

+ Ký hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền hàng bên nước ngoài.

+ Nhận phí uy thác xuất khẩu từ đơn vị trong nước.

Những người nhận uỷ thác hiểu rõ tình hình thị trường pháp luật và tập quán địa phương, do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và thanh tránh bớt uỷ thác cho người uỷ thác.

Đối với người nhận uỷ thác là không cần bỏ vốn vào kinh doanh tạo ra công ăn việc làm cho nhân viên đồng thời cũng thu được một khoản tiền đáng kể.

Tuy nhiên, việc sử dụng trung gian bên cạnh mặt tích cực như đã nói ở trên còn có những han chế đáng kể như :

- Công ty kinh doanh XNK mất đi sự liên kết trực tiếp với thị trường thường phải đáp ứng những yêu sách của người trung gian.

Buôn bán đối lưu (Counter – trade)

Khái niệm: Buôn bán đối lưu là một trong những phương thức giao dịch xuất khẩu trong xuất khẩu kết hợp chặc chẽ với nhập khẩu, người bán hàng đồng thời là ngời mua, lượng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Trong phương thức xuất khẩu này mục tiêu là thu về một lượng hàng hoá có giá trị tương đương. Vì đặc điểm này mà phương thức này còn có tên gọi khác như xuất nhập khẩu liên kết, hay hàng đổi hàng.

Các bên tham gia buôn bán đối lưu luôn luôn phải quan tâm đến sự cân bằng trong trao đổi hàng hoá. Sự cần bằng này được thể hiện ở những khía cạnh sau:

- Cân bằng về mặt hàng: mặt hàng quý đổi lấy mặt hàng quý, mặt hàng tồn kho đổi lấy mặt hàng tồn kho khó bán.

- Cân bằng về giá cả so với giá thực tế nếu giá hàng nhập cao thì khi xuất đối phương giá hàng xuất khẩu cũng phải được tính cao tương ứng và ngược lại.

- Cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau:

- Cân bằng về điều kiện giao hàng: nếu xuất khẩu CIF phải nhập khẩu CIF.

Buôn bán đối lưu ra đời từ lâu trong lịch sử quan hệ hàng hoá tiền tệ, trong đó sớm nhất là hàng đổi dàng và trao đổi bù trừ.

Nghiệp vụ hàng đổi hàng (barter): ở hai bên trao đổi trực tiếp với nhau nhưng hàng hoá có giá trị tương đương, việc giao hàng diễn ra hầu như đồng thời. Tuy nhiên trong hoạt động đổi hàng hiện đại người ta có thể sử dụng tiền để thành toán một phần tiêng hàng hơn nữa có thể thu hút 3-4 bên tham gia.

Nghiệp vụ bù trừ (Compensation) ha8i bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi trị giá hàng giao, đến cuối kỳ hạn hạn, hai bên mới đối chiếu sổ sách, đối chiếu với giá trị giao và giá trị nhận. Số dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ.

Nghiệp vụ mua đối lưu (Counler – Purchase) một bên tiến hành của công nghiệp chế biến, bán thành phẩm nguyên vật liệu.

Nghiệp vụ này thường được kéo dài từ 1 đến 5 năm còn trị giá hàng giao để thanh toán thường không đạt 100% trị giá hàng mua về.

Nghiệp vụ chuyển giao nghĩa vụ (Swich) bên nhận hàng chuyển khoản nợ về tiền hàng cho một bên thứ ba.

Giao dịch bồi hoàn (offset) người ta đổi hàng hoá hoặc dịch vụ lấy những dịch vụ và ưu huệ (như ưu huệ đầu tư hoặc giúp đỡ bán sản phẩm) giao dịch này thường xảy ra trong lĩnh vực buôn bán những kỹ thuật quân sự đắt tiền trong việc giao những chi tiết và những cụm chi tiết trong khuôn khổ hợp tác công nghiệp.

Trong việc chuyển giao công nghệ người ta thường tiến hành nghiệp vụ mya lại (buy back) trong đó một bên cung cấp thiết bị toàn bộ hoặc sáng chế bí quyết kỹ thuật (know-how) cho bên khác, đồng thời cam kết mua lại những sản phẩm cho thiết bị hoặc sáng chế bí quyết kỹ thuật đó tạo ra.

-Dùng thư tín dụng thương mại đối ứng (Reciprocal L/C): đây là loại L/C mà trong nội dung của nó có điều khoản quy định (L/C này chỉ có hiệu lực khi người hưởng mở một L/C khác có kim ngạch tương đương). Như vậy hai bên vừa phải mở L/C vừa phải giao hàng.

- Dùng người thứ 3 khống chế chứng từ sở hữu hàng hoá, người thứ 3 chỉ giao chứng từ đó cho người nhận hàng khi người này đổi lại một chứng từ sở hữu hàng hoá có giá trị tương đương.

- Dùng một tài khoản đặc biệt ở ngân hàng để theo dõi việc giao hàng của hai bên, đến cuối một thời kỳ nhất định (như sau sáu tháng, sau một năm…) nếu còn có số dư thì bên nợ hoặc phải giao nốt hàng hoặc chuyển số dư sang kỳ giao hàng tiếp, hoặc thanh toán bằng ngoại tệ.

- Phạt về việc nếu một bên không giao hàng hoặc chậm giao hàng phải nộp phạt bằng ngoại tệ mạnh, mức phạt do hai bên thoả thuận quy định trong hợp đồng.

Xuất khẩu hàng hoá theo nghị định thư

Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là để gán nợ) được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính Phủ.

Đây là một trong những hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường: tìm kiến bạn hàng, mặt khách không có sự rủi ro trong thanh toán.

Trên thực tế hình thức xuất khẩu này chiếm tỷ trong rất nhỏ. Thông thường trong các nước XHCN trước đây và trong một số các quốc gia có quan hệ mật thiết và chỉ trong một số doanh nghiệp nhà nước.

Đây là hình thức kinh doanh mới nhưng đang phát triển rộng rãi, do những ưu việt của nó đem lại.

Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hoá không cần vượt qua biên giới quốc gia màkhách hàng vẫn mua được. Do vậy nhà xuất khẩu không cần phải thâm nhập thị trường nước ngoài mà khách hàng tự tìm đến nhà xuất khẩu.

Mặt khác doanh nghiệp cũng không cần phải tiến hành các thủ tục như thủ tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hoá …do đó giảm được chi phí khá lớn.

Trong điều kiện nền kinh tế như hiện nay xu hướng di cư tạm thời ngày càng trở nên phổ biến mà tiêu biểu là số dân đi du lịch nước ngoài tăng nên nhanh chóng. Các doanh nghiệp có nhận thức đây là một cơ hội tốt để bắt tay với các tổ chức du lịch để tiến hành các hoạt động cung cấp dịch vụ hàng hoá để thu ngoại tệ. Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể tận dụng cơ hội này để khuếch trương sản phẩm của mình thông qua những du khách.

Mặt khác với sự ra đời của hàng loạt khu chế xuất ở các nước thì đây cũng là một hình thức xuất khẩu có hiệu quả được các nước chú trọng hơn nữa. Việc thanh toán này cũng nhanh chóng và thuận tiện.

Đây là một phương thức kinh doanh trong đó một bên gọi là bên nhận gia công nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công).

Đây là một trong những hình thức xuất khẩu đang có bước phát triển mạnh mẽ và được nhiều quốc gia chú trọng.

Đối với bên đặt gia công: Phương thức này giúp họ lợi dụng về giá rẻ, nguyên phụ và nhân công của nước nhận gia công.

Đối với bên nhận gia công: Phương thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho nhân công lao động trong nước hoặc nhập được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc như Nam Triều Tiên, Thái Lan, Sinhgapo….

Các hình thức gia công quốc tế:

Xét về quyền sở hữu nguyên liệu, gia công quốc tế có thể tiến hành dưới hình thức sau đây:

Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ thu hồi sản phẩm và trả phí gia công.

Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ mua thành phẩm. Trong trường hợp này quyền sở hữu nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công.

Ngoài ra người ta còn có thể áp dụng hình thức kết hợp trong đó bên đặt gia công chỉ giao những nguyên vật liệu chính còn bên nhận gia công cung cấp những nguyên vật liệu phụ.

Xét về giá cả gia công người ta có thể chia việc gia công thành hai hình thức:

+ Hợp đồng thực chi, thực thanh (cost phis contract) trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên đạt gia công toàn bộ những chi phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công.

+ Hợp đồng khoán trong đó ta xác định một giá trị định mức (target price) cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí của bên nhận gia công là bao nhiêu đi chăng nữa, hai bên vẫn thanh toán theo định mức đó.

Mối quan hệ giữa bên nhận gia công và bên đặt gia công được xác định bằng hợp đồng gia công. Hợp đồng gia công thường được quy định một số điều khoản như thành phẩm, nguyên liệu, giá cả, thanh toán, giao nhận…

Đây là một hình thức xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất.qua hợp đồng tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về số ngoại tệ lớn hơn số ngoại tệ đã bỏ ra ban đầu.

Hợp đồng này luôn thu hút ba nước xuất khẩu, nước tái xuất, và nước nhập khẩu. Vì vậy người ta gọi giao dịch tái xuất là giao dịck ba bên hay giao dịch tam giác.( Triangirlar transaction)

Tái xuất có thể thực hiện bằng một trong hai hình thức sau:

Tái xuất theo đúng nghĩa của nó, trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của đồng tiền đồng tiền được xuất phát từ nước nhập khẩu sang nước tái xuất và nhanh chóng được chuyển sang nước xuất khẩu.

Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng máy móc, thiết bị, khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn.

kinh doanh tái xuất đòi hỏ sự nhạy bén tình hình thị trường và giá cả, sự chính xác và chặt chẽ trong các hoạt động mua bán. Do vậy khi doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo phương thức này thì cần phải có đội ngũ cán bộ có chuyện môn cao.

Giới thiệu khái quát huyện Yên Mỹ

Yên Mỹ nằm ở phía Bắc của tỉnh Hưng Yên, cách thủ đô Hà nội 30 km, có quốc lộ 5A và quốc lộ 39 A với nhiều hệ thống giao thông thuận lợi như: Đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng và đường Hà Nội – Hưng Yên; có danh giới với 5 trong số 10 huyện, thị của tỉnh. Diện tích tự nhiên 91,09 km2, dân số với trên 13 vạn dân. Yên Mỹ có 17 đơn vị hành chính xã (16 xã và 1 thị trấn) gồm: xã Đồng Than, xã Giai Phạm, xã Hoàn Long, xã Liêu Xá, xã Minh Châu, xã Ngọc Long, xã Nghĩa Hiệp, xã Tân Lập, xã Tân Việt, xã Thanh Long, xã Lý Thường Kiệt, xã Trung Hưng, xã Trung Hoà, xã Việt Cường, xã Yên Hoà, xã Yên Phú và thị trấn Yên Mỹ.

Yên Mỹ có độ cao trung bình từ 3 – 4m, thoải dần từ tây bắc xuống đông nam, theo hướng chung của tỉnh Hưng Yên. Địa hình này không cản trở đến việc cơ giới hóa và thủy lợi hóa trong quá trình phát triển nông nghiệp.

Huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình từ 18 – 27oC; lượng mưa hàng năm từ 1.600 – 1.700mm và tập trung vào các tháng 8, 9. Đặc điểm trên tạo thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp; song, ở Yên Mỹ mùa đông thường khô lạnh thiếu nước.

Yên Mỹ là địa danh có truyền thống lịch sử cách mạng và văn hiến, là quê hương của cố Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, của Trung tướng Nguyễn Bình – vị tướng tài ba trong chống Pháp, cũng là quê hương của nhà thơ Đoàn Thị Điểm, nhà văn Vũ Trọng Phụng, nhà hiền triết Đại Y Tôn Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.

Vị trí địa lý: Yên Mỹ nằm ở trung điểm phía Bắc của tỉnh Hưng Yên, cách thành phố Hưng Yên khoảng 30 Km, cách thủ đô Hà Nội 30 Km; huyện Yên Mỹ có các huyết mạch giao thông chính như quốc lộ 5A, 39A, đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, đường Hà Nội – Hưng Yên và một số huyết mạch giao thông quan trọng khác; có ranh giới địa lý với 5 trong số 10 huyện, thị của tỉnh Hưng Yên. Với vị trí địa lý của Yên Mỹ tạo cơ hội thuận lợi để liên doanh, liên kết với các tỉnh và huyện bạn trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội; đồng thời tạo cơ hội để các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư trên địa bàn. Đến nay, trên địa bàn huyện Yên Mỹ có 89 dự án đầu tư, trong đó có 82 dự án đi vào hoạt động, tạo việc làm thường xuyên cho hàng vạn lao động.

Huyện Yên Mỹ được tái lập từ 01/9/1999 có 17 đơn vị hành chính xã, thị trấn (gồm: 16 xã và 1 thị trấn): xã Đồng Than, xã Hoàn Long, xã Liêu Xá, xã Minh Châu, xã Ngọc Long, xã Nghĩa Hiệp, xã Tân Lập, xã Tân Việt, xã Thanh Long, xã Lý Thường Kiệt, xã Giai Phạm, xã Trung Hưng, xã Trung Hoà, xã Việt Cường, xã Yên Hoà, xã Yên Phú và Thị trấn Yên Mỹ.

Đặc điểm địa hình: Huyện Yên Mỹ có độ cao trung bình từ 3 – 4m, thoải dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, theo hướng chung của tỉnh Hưng Yên. Địa hình này không cản trở đến việc cơ giới hóa và thủy lợi hóa trong quá trình phát triển nông nghiệp.

Khí hậu: Huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ

trung bình từ 18 – 27oC; lượng mưa hàng năm từ 1.600 – 1.700mm

và tập trung vào các tháng 8, 9; đặc điểm trên tạo thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Song, ở Yên Mỹ mùa đông thường khô lạnh thiếu nước.

Yên Mỹ có diện tích đất tự nhiên là 9.250,14 ha (92,50 km2), trong

đó đất nông nghiệp là 5.827,99 ha (chiếm 63% diện tích tự nhiên của huyện). Nhìn chung, đất đai của huyện cho phép phát triển nông nghiệp với nhiều loại cây trồng.

Cấp điện: Huyện Yên Mỹ được cấp điện từ mạng lưới quốc gia 35KV thuộc trạm Phố Cao. Ngoài ra, huyện còn được cấp lưới điện quốc gia 10 KV từ trạm Khoái Châu và trạm trung gian Hưng Long. Mạng điện quốc gia đã được kéo về tới 17/17 xã, thị trấn để phục vụ sinh hoạt và sản xuất của nhân dân; hiện đang xây dựng trạm 10 KV tại thị trấn Yên Mỹ để chủ động trong việc cấp điện trên địa bàn huyện.

Giao thông: Toàn huyện có 655,01 km đường bộ, trong đó: Quốc lộ 30,78 Km; tỉnh lộ 37,6 Km; đường huyện 18,24 Km; đường xã quản lý 568,38 Km. Các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ phân bô đồng đều trên toàn lãnh thổ; trục Đông Tây có tuyến Quốc lộ 5 và đường cao tốc Hà Nội – Hải phòng đang triển khai xây dựng; trục Bắc Nam có tuyến Quốc lộ 39A và đường liên tỉnh Hà nội – Hưng Yên là điều kiện thuận lợi để lưu thông trên địa bàn vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

Theo số liệu thống kế đến 31 tháng 12 năm 2010, dân số huyện Yên Mỹ có khoảng 137.135 người. Trong đó lao động trong độ tuổi là 67.928 người. Tỷ lệ lao động công nghiệp ngày một tăng nhờ phát triển công nghiệp.

Với vị trí địa lý thuận lợi, trong những năm qua Yên Mỹ phát triển kinh tế tương đối ổn định trên các mặt kinh tế – xã hội. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 18,03%; cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp – Công nghiệp xây dựng – Thương mại dịch vụ đạt 4,1% – 27,95% – 19,71%; thu nhập bình quân đầu người đạt 7,5 triệu đồng/năm; thu nhập trên 1ha canh tác đạt 41,8 triệu đồng; cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Trồng trọt – Chăn nuôi thuỷ sản – Dịch vụ đạt 61,2% – 34,9% – 3,9%; thu ngân sách trên địa bàn đạt 21,017 tỷ đồng.

Năm 2006, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 20,16%; cơ cấu kinh tế: Nông nghiệp – Công nghiệp xây dựng – Thương mại dịch vụ đạt 3,47% – 35,63% – 20,81%; thu nhập bình quân đầu người đạt 8,76 triệu đồng/năm; thu nhập trên 1ha canh tác đạt 43,17 triệu đồng; cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Trồng trọt – Chăn nuôi thuỷ sản – Dịch vụ đạt 57,7% – 38,2% – 4,1%; thu ngân sách trên địa bàn 22,583 tỷ đồng.

Từ những kết quả phát triển kinh tế qua 2 năm cho thấy, Yên Mỹ từng bước được phát triển ổn định. Tốc độ tăng trưởng bình quân (2005-2010) đạt 19,93%; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng nhanh công nghiệp và dịch vụ: Nông nghiệp – Công nghiệp xây dựng – Thương mại dịch vụ đạt: 19,28% – 42,82% – 37,9%; thu nhập bình quân đầu người đạt 22 triệu đồng. Nông nghiệp phát triển khá toàn diện, theo hướng sản xuất hàng hóa; tốc độ tăng trưởng bình quân (2005-2010) đạt 2,83%; cơ cấu trong nông nghiệp: Trồng trọt – Chăn nuôi thủy sản – Dịch vụ đạt: 42,7% – 55% –  2,3 %.

Hệ thống, quy mô giáo dục đào tạo tiếp tục được củng cố phát triển; tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn, trên chuẩn hàng năm đều tăng. Học sinh giỏi, giáo viên giỏi năm sau cao hơn năm trước; bình quân hàng năm số cháu 6 tuổi vào lớp 1 đạt 100%; học sinh tốt nghiệp THPT đạt 86,5%; học sinh thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học đạt trên 28%; có 18 trường được công nhận đạt chuẩn Quốc gia tăng 10 trường so với năm 2005. Cơ sở vật chất được tăng cường đầu tư; tỷ lệ phòng học kiên cố cao tầng: Mầm non đạt trên 54%; tiểu học đạt trên 76%; THCS đạt trên 80%; THPT đạt 90%. Trung tâm giáo dục thường xuyên được mở rộng và nâng cấp; thành lập mới Trường THPT Minh Châu.

Các hoạt động văn hoá, thể thao có nhiều chuyển biến; toàn huyện có 74/85 làng văn hoá, đạt 87%; 90% gia đình, cơ quan, đơn vị văn hóa; có 10 xã đạt 100% số làng văn hoá. 100% số làng có điểm sinh hoạt văn hóa. Số người tập luyện TDTT thường xuyên chiếm trên 23% dân số; toàn huyện có trên 12% hộ đạt chuẩn gia đình thể thao; 65 câu lạc bộ TDTT và 45 sân thể thao thường xuyên hoạt động.100% trạm y tế xã, thị trấn có bác sỹ khám và điều trị; có 11/17 xã đạt chuẩn Quốc gia về Y tế, chiếm gần 65%; tỷ lệ phát triển dân số 0,95%, chất lượng dân số ngày càng được nâng cao, các quyền trẻ em được đảm bảo; tỷ lệ hộ nghèo còn 3%; tỷ lệ lao động trong độ tuổi (từ 18 – 30) qua đào tạo đạt trên 30%;hàng năm tạo việc làm mới cho từ 2.000 – 2.500 lao động.

Giới thiệu về lịch sử huyện Yên Mỹ

Huyện Yên Mỹ đã có từ rất lâu đời, nằm trên vùng Bãi Sậy của Hưng Yên với nhiều cái tên đã đi vào lịch sử, nhưng Yên Mỹ chỉ trở thành một đơn vị hành chính cấp huyện kể từ khi thành lập đạo Bãi Sậy năm 1890. Khi đạo này bị giải thể, Yên Mỹ trở thành một huyện thuộc tỉnh Hưng Yên.

Yên Mỹ là nơi sản sinh ra những danh nhân nổi tiếng như Trạng nguyên Đỗ Thế Diên, nhà sử học Phạm Công Trứ, Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Nữ sỹ Đoàn Thị Điểm, nhà chính trị Nguyễn Văn Linh.

Năm 1999, huyện Yên Mỹ được tái lập từ huyện Mỹ Văn. Kinh tế của Yên Mỹ có bước phát triển nhanh sau khi tái lập, với sự ưu đãi của tỉnh trong chính sách thu hút đầu tư, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đã chọn Yên Mỹ là điểm đến đầu tư. Hiện nay, ở Yên Mỹ đã có gần 100 dự án đầu tư trong và ngoài nước.

Danh nhân nổi tiếng huyện Yên Mỹ

Yên Mỹ là nơi sản sinh ra những danh nhân nổi tiếng như Trạng nguyên Đỗ Thế Diên, nhà sử học Phạm Công Trứ, Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Nữ sỹ Đoàn Thị Điểm, nhà chính trị Nguyễn Văn Linh.

Giới thiệu khái quát huyện Châu Đức

Điều kiện tự nhiên huyện Châu Đức

Châu Đức là huyện nằm về phía Tây Bắc của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Có diện tích  tự nhiên 42.456,61 ha, bằng 21,34 % diện tích tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, với dân số khoảng 153.168 người,  mật độ dân số là 351 người/km2.

– Từ 107o 08’05” đến 107o22’02” kinh độ Đông.

– Từ 10o 32’21” đến 10o 46’33” vĩ độ Bắc

– Phía Bắc giáp huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai

– Phía Tây giáp huyện Tân Thành

– Phía Nam giáp huyện Đất Đỏ và Thành phố Bà Rịa

– Phía Đông giáp huyện Xuyên Mộc.

Toàn huyện có một dạng địa hình chính là địa hình đồi lượn sóng: có độ cao từ 20-150 m, bao gồm những đồi đất bazan, tạo thành những “chùy” chạy theo hướng Bắc xuống Tây Nam. Địa hình bằng, thoải, độ dốc chỉ khoảng 1-8o. Trong tổng quỹ đất có tới 84,19% diện tích có độ dốc  <8o, là địa hình rất thuận lợi cho bố trí sử dụng đất;  chỉ có 1,69% diện tích có độ dốc > 15 o.

Huyện Châu Đức mang đặc điểm chung của khí hậu vùng ĐNB,  nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có nền nhiệt cao đều quanh năm, ít gió bão, không có mùa đông lạnh, thuận lợi cho phát triển kinh tế nói chung và đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, với các cây trồng nhiệt đới rất điển hình.

Các nguồn tài nguyên huyện Châu Đức:

Tài nguyên đất có vai trò hết sức quan trọng trong  việc thúc đẩy phát triển nền kinh tế – xã hội cũng như bố trí dân sinh, bố trí các ngành sản xuất. Chính vì vậy, để đánh giá một cách chính xác quy mô, tiềm năng nguồn tài nguyên này chúng tôi tiến hành rà soát, chỉnh lí và xây dựng bản đồ đất huyện Châu Đức tỷ lệ 1/25.000. Kết quả phân loại đất huyện Châu Đức gồm 6 nhóm đất với 8 đơn vị bản đồ đất (soil mapping units). Tính chất các lọai đất như sau:

Nhóm đất phù sa có 01 đơn vị bản đồ, với diện  tích 256 ha (0,6%), phân bố ở ven sông Xoài, gồm xã Nghĩa Thành 220 ha và xã Suối Nghệ 35 ha.

– Đất phù sa có độ phì nhiêu tương đối cao so với các loại đất đồng bằng, ít chua (pHKCl: 4,5-5,0), giầu mùn (2-4%OM), đạm tổng số cao (0,10-0,15%N), lân tổng số nghèo (< 0,06%). Đất phù sa có thành phần cấp hạt rất thay đổi nhưng nhìn chung  có sa cấu từ thịt trung bình đến thịt nặng.

– Đất phù sa thích hợp chính cho việc trồng lúa nước, các khu vực có tưới trong mùa khô được trồng lúa 2-3 vụ. Hướng sử dụng đất phù sa lâu dài là trồng lúa nước, có thể xen canh với các cây rau màu ở những nơi có địa hình cao thoát nước. Biện pháp cung cấp nước tưới và xây dựng đồng ruộng là những biện pháp cơ bản trong việc sử dụng đất phù sa có hiệu quả cao.

Nhóm đất xám có 01 đơn vị bản đồ, với diện tích 402 ha (0,95%), phân bố chủ yếu ở xã Suối Nghệ 332 ha và xã Nghĩa Thành 70 ha. Đất xám ở đây hình thành trên đá Granit.

– Đất xám trên granit nhìn chung có độ phì nhiêu rất kém, ít có ý nghĩa cho sản xuất nông nghiệp. Nghèo mùn, đạm, lân, kali, kể cả các cation kiềm trao đổi. Hàm lượng mùn ở tầng đất mặt chỉ đạt xấp xỉ 1%OM, đạm tổng số không quá 0,1%N, tổng Mg2+ và Ca2+ chỉ đạt dưới 1 me/100 gam đất.

– Đất xám trên granit có độ phì không cao, vì vậy khi sản xuất nông nghiệp cần phải bón phân bổ sung với một lượng đáng kể, đặc biệt là các loại phân hữu cơ để bổ sung độ phì nhiêu cho đất. Tuy nhiên đất xám trên granit có tính chịu lực rất tốt vì vậy thuận lợi trong xây dựng, bố trí dân sinh và công nghiệp.

Nhóm đất đen có 01 đơn vị bản đồ, với diện tích 3.291 ha (7,75%), phân bố rải rác ở hầu hết các xã: TT Ngãi Giao 827 ha; xã Sơn Bình 759 ha; xã Quảng Thành 512 ha; xã Bình Trung 353 ha; xã Kim Long 200 ha; xã Suối Rao 170 ha; xã Xuân Sơn 148 ha; xã Bình Giã 107 ha; xã Đá Bạc 82 ha; xã Nghĩa Thành 70 ha; xã Xà Bang 63 ha.

– Đất đen có độ phì nhiêu  hơn hẳn các loại đất khác trong vùng. Phản ứng dung dịch đất ít chua. Hàm lượng mùn, đạm, lân tổng số giàu (2-3% OM; 0,1-0,25%N; 0,15-0,25% P2O5. Nghèo kali tổng số, nhưng rất giàu cation kiềm trao đổi (Ca2+: 12-14 me/100 gam đất), dung tích hấp thu cao và độ no bazơ cao (CEC: 25-30 me/100 gam; BS: 52-57%). Sa cấu đất nặng, cấu trúc đất đoàn lạp, viên hạt rất tơi xốp.

– Tuy vậy, hạn chế chính của đất đen là tầng đất thường rất mỏng, lẫn nhiều mảnh đá và nhiều đá tảng lộ đầu, gây trở ngại cho khâu làm đất và sự phát triển của bộ rễ. Vì vậy nó chỉ phù hợp cho các cây ngắn ngày có bộ rễ ăn nông.

– Hầu hết đất đen đã được khai thác dùng trong nông nghiệp. Các đất đen trên địa hình cao thoát nước trồng các cây hoa màu và công nghiệp hàng năm như : đậu nành, thuốc lá, bông, bắp và các loại đậu đỗ khác… Ngoài ra cây ăn quả như chuối, na, chôm chôm cũng có khả năng trồng rất tốt. Các đất đen địa hình thấp chủ yếu dùng cho việc trồng lúa và có khả năng trồng màu trong mùa khô.

Nhóm đất đỏ vàng có 2 đơn vị bản đồ, với diện tích 30.648 ha (72,19%), phân bố ở hầu hết các xã trong huyện: Xã Láng Lớn 4581 ha; Xà Bang 4547 ha; Đá Bạc 3145 ha; Bình Ba 2749 ha; Kim Long 2460 ha; Quảng Thành 2318 ha; Suối Rao 2253 ha; TT Ngãi Giao 1884 ha; Suối Nghệ 1468 ha; Xuân Sơn 1403 ha, Nghĩa Thành 1367 ha; Sơn Bình 1.003 ha;  Bình Giã 745 ha; Bình Trung 725 ha. Đất đỏ vàng trên địa bàn huyện được hình thành từ đá bazan được chia thành hai đơn vị chú dẫn bản đồ là: Đất nâu đỏ trên bazan (DT: 17.788 ha) và đất nâu vàng trên bazan (DT: 12.860 ha).

Nhìn chung đất đỏ trên đá bazan có tầng đất dày, đồng nhất suốt phẫu diện, cấu tượng viên hạt, tơi xốp. Tầng đất mặt khá giàu mùn và có màu nâu đậm, càng xuống sâu mức độ tơi xốp càng cao, với màu nâu đỏ đồng nhất. Một số diện tích đất có nhiều kết von, gây trở ngại cho sản xuất.

– Đất nâu đỏ trên đá bazan có độ phì nhiêu tương đối cao (Mùn: 3-4%; 0,15-0,20%N; 0,10-0,15% P2O5), tuy vậy nghèo kali và các cation kiềm trao đổi. Đất chua (pHKCl: 4,5-5,0), dung tích hấp thu và độ no bazơ thấp (CEC: 16-25 me/100 gam,  BS:20-35%). Về thành phần cơ giới đất đỏ trên bazan là nặng, hàm lượng sét vật lý luôn đạt >50%. Cấu trúc viên hạt khá tơi xốp, khả năng thấm và giữ nưóc rất tốt.

– Đất nâu vàng trên đá bazan cũng là loại đất có độ phì cao, có hàm lượng mùn, đạm, lân, kali tổng số và dễ tiêu lớn (Mùn: 2-3%; 0,15-0,20%N; 0,10-0,15% P2O5), có dung tích hấp thu, và độ no bazơ thấp, (CEC: từ 9,50 -10,49 me/100 gam,  BS:20-35%), có thành phần cơ giới nặng, hàm lượng sét cao ( >50%), có cấu trúc viên hạt tơi xốp, khả năng thấm và giữ nước tương đối tốt

– Đất nâu đỏ và nâu vàng trên bazan là các loại đất có chất lượng cao nhất so với các loại đất đồi núi ở nước ta, rất thích hợp cho việc trồng các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao như Cà phê, tiêu, Cao su, Cây ăn quả… Tuy nhiên, trong sử dụng đất cần có biện pháp chống xói mòn rửa trôi.

Nhóm đất dốc tụ có 5.719 ha, chiếm 13,47% DTTN. Phân bố rải rác ở hầu khắp các xã: Xã Bình Giã 906 ha; Đá Bạc 879 ha; Suối Rao 718 ha; Bình Trung 686 ha; TT Ngãi Gia 462 ha; Láng Lớn 472 ha; Nghĩa Thành 438 ha; Suối Nghệ 312 ha; Kim Long 234 ha; Bình Ba 231 ha; Sơn Bình 136 ha; Xuân Sơn 141 ha; Xà Bang 104 ha. Đất dốc tụ hình thành và phát triển từ các sản phẩm rửa trôi và bồi tụ của các loại đất ở các chân sườn thoải hoặc khe dốc.

Do đặc điểm hình thành và phân bố rộng rãi, nên đất dốc tụ có đặc điểm hình thái rất phức tạp, nó phụ thuộc vào thành phần mẫu chất tạo đất, cùng với đặc điểm địa hình khu vực. Nhìm chung đất dốc tụ có hai dạng hình rất cơ bản là: (i) Đất dốc tụ có thành phần cơ giới nặng và (ii) đất dốc tụ có thành phần cơ giới nhẹ.

Đất đốc tụ có độ phì nhiêu khá cao. Đất có phản ứng chua, giầu mùn, đạm tổng số, lân và kali. Đất có khả năng sử dụng chủ yếu cho việc trồng và thâm canh lúa nước.

(6). Đất xói mòn trơ sỏi đá: có 117 ha (0,28% DTTN), chỉ có ở xã Suối Nghệ. Đất được hình thành là hậu quả của quá trình xói mòn rửa trôi rất mãnh liệt trong một thời gian dài, ở một vùng khí hậu có lượng mưa lớn và tập trung và khi ấy lớp phủ thực vật đã bị cạn kiệt. Đất có tầng rất mỏng, nhiều khi hoàn toàn là đá hoặc kết von dày đặc. Các đất này không có khả năng cho sản xuất NN. Chỉ có khả năng khoanh nuôi phục hồi rừng nhằm bảo vệ đất đai và tạo cảnh quan sinh thái.

(1). Tài nguyên nước mặt: Huyện Châu Đức được bao bọc bởi 02 con sông lớn là Sông Xoài và Sông Ray, cùng với hệ thống suối rạch nhỏ và hồ chứa thủy lợi.

– Sông Xoài: Là ranh giới của huyện Châu Đức với huyện Tân Thành, chiều dài nằm trong phạm vi huyện: 22 km. Đây là một nhánh ở thượng nguồn của sông Dinh, bắt nguồn từ  huyện Long Khánh và xã Xà Bang, Láng Lớn, chảy theo hướng Bắc Nam và đổ vào sông Cỏ May. Trên lưu vực sông Xoài phần thuộc địa phận huyện Châu Đức đã xây dựng hồ Kim Long khai thác nước tưới cho cà phê, hồ tiêu, lúa và cung cấp nước sinh hoạt. Ở phía Nam của huyện có xây dựng hồ Đá Đen có dung tích chứa 28 triệu m3 cung cấp nước cho sinh hoạt và cho khoảng 1.900 ha đất sản xuất nông nghiệp; trong đó phần thuộc Châu Đức khoảng 1.200ha.

– Sông Ray : Là ranh giới của huyện Châu Đức với huyện Xuyên Mộc, tổng chiều dài 120km và phần lớn lưu vực thuộc tỉnh Đồng Nai (diện tích lưu vực đến cửa sông: 1.300 km2). Đoạn trung lưu thuộc huyện Châu Đức có chiều dài 22km và hiện nay, trên đoạn sông này đã xây dựng hệ thống thủy lợi hồ chứa nước Sông Ray với tổng diện tích mặt hồ khoảng 2.040 ha, trong đó huyện Châu Đức 488,18 ha. Hồ sông Ray là nguồn cấp nước  sinh hoạt, sản xuất công nghiệp và tưới tiêu cho các huyện  Long Điền, Đất Đỏ, Châu Đức, Xuyên Mộc  và Thành phố Vũng Tàu, với khối lượng  cấp nước khoản 535.000m3/ngày và diện tích tưới khoảng 9.157 ha đất nông nghiệp. Đồng thời Hồ Sông Ray cũng sẽ tạo nguồn để bổ sung nguồn cấp nước cho TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai.

– Ngoài 2 sông lớn kể trên, trong phạm vi hành chính huyện Châu Đức còn có các suối nhỏ như: suối Trà Răng, suối Gia Hốt, suối Lúp, suối Tầm Bó, suối Đá Bàng, suối Lồ Ồ 1, Lồ Ồ 2, suối Lùng, suối Tà Lùng, suối Gia Hoét,… nhưng nguồn sinh thủy vào mùa khô rất hạn chế.

– Trên địa bàn huyện, ngoài 3 hồ lớn đã nêu trên lưu vực của 2 sông này, đến nay đã xây dựng các hồ, đập khác bao gồm: Đập Cầu Mới, hồ Gia Hoét 1, hồ Gia Hoét 2, hồ Tầm Bó, hồ Đá Bàng, hồ núi Nhan, hồ núi Sao và một số đập dâng nhỏ, nhằm cung cấp nước sinh hoạt và tưới cho 255 ha cây ngắn ngày, 640 ha cây công nghiệp lâu năm.

(2). Tài nguyên nước ngầm: Theo kết quả nghiên cứu tài nguyên nước ngầm tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tháng 09/1999 của Đoàn địa chất thủy văn 707, huyện Châu Đức nằm trọn trong vùng có tầng chứa nước bazan Xuân Lộc với các đặc điểm như sau :

Về đặc điểm và chất lượng nước ngầm:

Bảng 1.5  Lưu lượng và phân bố của tầng chứa nước bazan huyện Châu Đức

Lưu lượng của các tầng chứa nước (m3/h)

* Nguồn : Báo cáo nước ngầm của Đoàn 707

Nếu sử dụng nước cho sinh hoạt gia đình và tưới cây chỉ vào ban ngày thì cứ mỗi 1,66 ha ở Châu Đức có thể khoan được 1 giếng và số lượng nước khai thác bình quân của mỗi giếng là: 239 m3/ngày. Về lưu lượng và diện tích phân bố như sau:

Như vậy, mặc dù so với các huyện khác trong tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, khả năng cung cấp nước ngầm ở Châu Đức có khá hơn. Song, chúng ta vẫn xem đây là một hạn chế cho cả sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt. Ngay cả ở những nơi có trữ lượng nước ngầm ở mức trung bình đến giàu thì việc khai thác hợp lý, có hiệu quả đi đôi với bảo vệ tốt nguồn nước ngầm cũng phải được đặc biệt coi trọng. Hạn chế và đi đến ngăn chặn hữu hiệu nhất mọi nguy cơ ảnh hưởng xấu đến nước ngầm. Bởi đây là tài nguyên vô cùng quý giá mà cả nhân loại đang quan tâm (1/2 dân số thế giới đang trong tình trạng thiếu nước).

So với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng và vùng Đông Nam Bộ nói riêng, Châu Đức có tài nguyên rừng rất nghèo nàn:

Theo số liệu điều tra kiểm kê của ngành địa chính năm 2010 thì tổng diện tích rừng hiện có là 570,62 ha; trong đó, rừng tự nhiên là 48,53 ha, rừng trồng là 522,09 ha.

Rừng ở Châu Đức có quy mô không lớn, song lại là rừng có chất lượng khá cao. Theo thống kê, diện tích rừng có trữ lượng khá : 541,5 ha (chiếm 82,6% diện tích rừng); đặc biệt là khu rừng phòng hộ thuộc các xã Sơn Bình, Xuân Sơn và Suối Rao là loại rừng gỗ sao, một loại gỗ tốt, có nhiều công dụng và giá trị kinh tế cao.

Trên địa bàn Châu Đức khoáng sản có trữ lượng và chất lượng đạt yêu cầu khai thác công nghiệp không nhiều. Trong đó, vật liệu xây dựng (đá xây dựng, sỏi san lấp, sét gạch ngói) là các loại khoáng sản chiếm ưu thế.

+ Đá Puzơlan: Phân bố ở một số khu vực thuộc xã các Bình Trung, Quảng Thành, Suối Rao. Nhìn chung các mỏ đá Puzơlan trên địa bàn Châu Đức có chất lượng tốt có thể khai thác làm nguyên liệu cho sản xản xuất xi măng hay sản xuất sợi bazan, tuy nhiên các mỏ đều có trữ lượng nhỏ và ít tập trung.

+ Nước khoáng: Phân bố ở xã Suối Nghệ, trữ lượng khai thác khoảng 40.000 lít/ngày, nguồn nước có chất lượng tốt, hiện đã được khai thác sản xuất nước khoáng đóng chai.

+ Đá xây dựng: Đá xây dựng có số lượng khá lớn nhưng phân bố ít tập trung. Đá xây dựng trên địa bàn Châu Đức chủ yếu là các đá Bazan phân bố ở các đồi, núi  của huyện. Chất lượng đá được  đánh  giá không cao, vì vậy chỉ  khai thác chủ yếu làm vật liệu đá xây dựng.

+ Sét gạch ngói: Phân bố ở khu vực Đông Nam huyện thuộc các xã Xuân Sơn, Sơn Bình, Suối Rao. Nhìn chung Sét gạch ngói ở Châu Đức có trữ lượng không lớn và chất lượng không cao, có thể làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng (ngói, gạch đặc, gạch lỗ, gạch trang trí…) phục vụ chính cho nhu cầu xây dựng tại địa phương.

+ Sỏi san lấp: phân bố ở các xã  phía Nam huyện như Suối Rao, Đá Bạc, suối Nghệ, Nghĩa Thành. Thành Phần chính là cuội, sỏi, sạn tồn tại dưới dạng kết von trong mẫu chất phù sa cổ. Hiện tại đã được khai thác trên địa bàn xã Suối Rao làm nguyên liệu san lấp phục vụ cho nhu cầu trên địa bàn Huyện.

Tiềm năng về tài nguyên khoáng sản trên địa bàn Châu Đức có trữ lượng không lớn,  và chất lượng không cao chủ yếu làm nguyên vật liệu xây dựng phục vụ cho nhu cầu của Huyện và  khu vực lân cận.

Tài nguyên nhân văn ở Châu Đức không chỉ bao gồm nguồn lực con người mà còn là những giá trị vật chất, văn hóa tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử hình thành và phát triển Huyện. Các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể Châu Đức cho thấy tài nguyên nhân văn ở  Huyện phong phú và đa dạng:

Là những công trình di tích lịch sử, đền, miếu, những địa điểm có ý nghĩa văn hóa trên địa bàn Huyện. Công trình di tích lịch sử, các chứng tích Cách mạng, biểu tượng của ý chí sắt đá và mưu trí, thông minh của quân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu nói chung và huyện Châu Đức nói riêng  trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mà điển hình là di tích căn cứ cách mạng Bàu sen, địa đạo Kim Long, tượng đài chiến thắng Bình Giã. Các di tích, chứng tích và tài nguyên nhân văn của đất nước luôn được chính quyền và nhân dân Châu Đức trân trọng bảo tồn.

Các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo ở huyện Châu Đức gắn liền với lịch sử khai hoang mở cõi. Trên 30 ngôi đình, chùa, đền và miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ là những tài nguyên quý giá về văn hóa, kiến trúc và nghệ thuật đình, chùa Phật giáo Nam bộ xưa và nay. Các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo vừa mang ý nghĩa tâm linh, văn hóa vừa là kho tàng kiến trúc, nghệ thuật.

+ Các giá trị văn hóa phi vật thể:

Châu Đức đã và đang bảo tồn và phát huy văn hóa phi vật thể (những tập quán, phong tục, tín ngưỡng) như văn hóa, các lễ hội người dân tộc Châu Ro,  người Hoa… các ngày giỗ tổ nghề, ngày Nhà giáo, ngày Báo hiếu… các chương trình xóa đói giảm nghèo, cứu trợ xã hội, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương,…; bảo trợ bệnh nhân nghèo, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng,… Nhìn chung, cộng đồng dân cư Châu Đức có tính nhân văn cao và có khả năng thúc đẩy xã hội phát triển một cách hài hòa, bền vững.

Môi trường không khí trong lành, thành phần các chất độc hại trong không khí tại Huyện vẫn nằm trong tiêu chuẩn chất lượng môi trường Việt Nam, chỉ một số nơi có lượng bụi cao hơn tiêu chuẩn, nhất là về mùa khô hoặc quanh khu vực khai thác vật liệu xây dựng.

Trong các đô thị, lượng các chất thải độc hại và bụi có chiều hướng tăng lên do lượng xe cộ, và các cơ sở sản xuất ngày càng tăng thải ra. Tại đây chất lượng  môi trường không khí đang bị suy giảm.

Trong canh tác nông nghiệp việc sử dụng thuốc trừ sâu không đúng tiêu chuẩn quy định còn khá phổ biến. Các thuốc bảo vệ thực vật được dùng chủ yếu là nhóm phốt pho hữu cơ và carbamate, phần phân hủy chưa hết của chúng được thải ra các dòng sông gây ô nhiễm. Ô nhiễm các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, các loại vi trùng  đã có dấu hiệu tăng ở nguồn nước sông Ray và các sông suối .

Chất lượng nước ngầm ở huyện còn khá tốt. Mức độ nhiễm mặn, phèn, chất hữu cơ và vi trùng đều nằm trong tiêu chuẩn chất lượng môi trường Việt Nam.

Nhìn chung diện tích đất rừng của huyện hiện không còn nhiều, đất nông nghiệp biến động giảm do chuyển một phần sang các lĩnh vực khác. Song nhìn chung đất nông nghiệp  vẫn còn chiếm diện tích khá lớn với các loại cây lâu năm có độ che phủ cao vì vậy độ che phủ trên địa bàn huyện là khá cao. Hiện chưa có đánh giá chính xác về mức độ ô nhiễm môi trường đất.

Những nghiên cứu cơ bản về BĐKH trên địa bàn vùng ĐNB nói chung, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nói riêng còn rất ít; năm 2010, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mới bắt đầu cho thực hiện dự án “Xây dựng kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”. Một số nhận định về tác động tiềm tàng của BĐKH đến vấn đề sử dụng đất trên địa bàn huyện Châu Đức như sau:

a/ BĐKH sẽ làm thiếu hụt nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt. Tăng nhiệt độ và khô hạn hóa là những cảnh báo có nhiều tin cậy đối với tỉnh, tăng khả năng thiếu nước ngọt. Xu thế bán khô hạn sẽ tiếp tục gia tăng do BĐKH. Thiếu hụt nguồn nước cho sản xuất và sinh hoạt dẫn đến việc khai thác quá mức và không thể kiểm soát môi trường của việc khai thác nước ngầm. Hiện tượng nhiễm mặn và ô nhiễm nước ngầm gia tăng. Mỏ nước ngầm Bà Rịa- nguồn cung cấp nước chủ yếu hiện nay của tỉnh vốn nằm ngay sát biên mặn, có nhiều khả năng bị nhiễm mặn và tiến tới mất khả năng cấp nước. Vì vậy, suy thoái tài nguyên nước sẽ tác động đến cuộc sống người dân và phát triển KT-XH.

b/ BĐKH có thể làm tăng tần số, cường độ, tính biến động và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm: như bão, lũ lụt, hạn hán,…làm giảm sản lượng năng suất cây trồng và vật nuôi, tăng nguy cơ rủi ro đối với sản xuất nông nghiệp.

c/ BĐKH tác động xấu đối với hệ sinh thái và thủy sản. Môi trường sống thay đổi trong đó nhiệt độ, độ mặn gia tăng sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống thủy sinh theo hướng giảm năng xuất, sản lượng thủy sản nuôi trồng.

d/ BĐKH tác động xấu đối với hạ tầng cơ sở. BĐKH sẽ gây ra những thiệt hại lớn đến cơ sở vật chất và con người như gây ra những cơn bão với mức độ tàn phá lớn sẽ phá hủy hoặc làm suy giảm chất lượng hệ thống hạ tầng cơ sở như giảm sức chịu tải, độ bền, độ an toàn…

e/ BĐKH tác động xấu công nghiệp và xây dựng: sản xuất công nghiệp bị đình trệ do thiếu nguồn nguyên liệu đầu vào, bảo quản nguyên vật liệu khó khăn do thời tiết nóng bức, nguy cơ thiếu điện cho sản xuất. Hiện tượng thiếu nước vào mùa khô cũng gây khó khăn trong việc cấp nước cho hoạt động công nghiệp. Các điều kiện khí hậu cực đoan, thiên tai làm giảm tuổi thọ của vật liệu, linh kiện, máy móc, thiết bị và giảm chất lượng công trình, đòi hỏi chi phí tăng lên để khắc phục.

Huyện Châu Đức được thành lập và hoạt đồng từ tháng 8/1994 theo Nghị định số 45/1994/NĐ-CP ngày 02/6/1994 của Chính phủ, là một huyện nông nghiệp của tỉnh, phía bắc giáp huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, phía nam giáp huyện Đất Đỏ và Thành phố Bà Rịa, phía tây giáp huyện Tân Thành, phía đông giáp huyện Xuyên Mộc. Tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 42.456,61 ha, toàn huyện đến nay có 16 đơn vị hành chính, gồm 15 xã và 1 thị trấn Ngãi Giao. Dân số trung bình của huyện hiện nay khoảng 157.816 người, lao động trong độ tuổi là 101.791 người.

Diện tích tự nhiên 42.456.61 km², dân số khoảng 157.816 người. Có 16 đơn vị hành chính gồm 15 xã và 1 thị trấn. Đó là thị trấn Ngãi Giao va các xã: Cù Bị, Xà Bang, Quảng Thành, Láng Lớn, Bàu Chinh, Bình Ba, Suối Nghệ, Bình Trung, Bình Giã, Xuân Sơn, Sơn Bình, Suối Rao, Đá Bạc, Nghĩa Thành, Kim Long.

Hầu hết đất đai của huyện là đất đỏ, vàng và đen trên nền đất Bazan (chiếm tỷ lệ 85,8% tổng diện tích đất) thuộc loại đất rất tốt, có độ phì cao, rất thích hợp cho việc trồng các loại cây lâu năm như: cao su, cà phê, tiêu, điều, cây ăn trái và các cây hàng năm như: bắp, khoai mì, đậu các loại, bông vải… Đây thực sự là một thế mạnh so với các huyện khác trong tỉnh. Một số cây trồng tuy không chiếm tỷ lệ cao, song có diện tích trồng khá lớn như cây điều, cây ăn trái, khoai mì…

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch tích cực theo hướng từng bước tăng dần tỷ trọng ngành chăn nuôi, ước đến hết năm 2015, tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 34,9%, trồng trọt chiếm 65,1%. Giá trị sản xuất bình quân 01 ha đất nông nghiệp đạt 90 triệu đồng, so với năm 2010 tăng 64 triệu đồng.

Quy hoạch phát triển nông nghiệp – nông thôn và triển khai quy hoạch chăn nuôi đến năm 2020 đã tạo thuận lợi trong việc định hướng phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Từng bước hình thành một số vùng sản xuất tập trung phù hợp với lợi thế đối với từng vùng, loại cây trồng, vật nuôi là thế mạnh nông nghiệp của huyện như hồ tiêu, chăn nuôi gia súc, gia cầm.

Sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng gắn với nhu cầu thị trường. Các tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp được ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả góp phần tăng năng suất, chất lượng nông sản và hạ giá thành sản xuất cho nông dân. Hầu hết cây trồng hàng năm được sử dụng giống mới từ đó cho năng suất cao; chăn nuôi gia súc, gia cầm trong chuồng lạnh, kết hợp với giống mới, kỹ thuật chăm sóc hiện đại góp phần tăng năng suất, chất lượng thịt và hiệu quả chăn nuôi.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo. Xã Quảng Thành đạt 19/19 tiêu chí đã được UBND tỉnh công nhận xã điểm nông thôn mới. Đối với các xã nông thôn mới giai đoạn 2013 – 2015, hiện nay trung bình mỗi xã đạt khoảng 14 tiêu chí; dự kiến đến cuối năm 2015 có 02/14 xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 14,29%. Tổng số vốn được huy động đầu tư xây dựng nông thôn mới 1.400 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách 356 tỷ đồng, vốn dân đóng góp 445 tỷ đồng, còn lại các nguồn vốn khác.

Lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển, dự kiến đến năm 2015 có 870 cơ sở, doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh, so với năm 2011 tăng 20 cơ sở, doanh nghiệp. Cụm công nghiệp Ngãi Giao giá trị sản xuất khoảng 2.578 tỷ đồng/năm; khu Công nghiệp – Đô thị Châu Đức đang được tiếp tục đầu tư hạ tầng kỹ thuật và kêu gọi đầu tư; khu Công nghiệp Đá Bạc đã được khởi công và đang trong giai đoạn đầu tư hạ tầng kỹ thuật. Hoạt động ngành tiểu thủ công nghiệp được duy trì và ổn định sản xuất, đáp ứng một phần nhu cầu của thị trường tại chỗ và phục vụ thị trường lân cận.

Xây dựng mới, nâng cấp, sửa chữa chợ Kim Long, Ngãi Giao và một số chợ xã; các mô hình kinh doanh thương mại khác như cửa hàng tự chọn, siêu thị điện máy; loại hình dịch vụ như hoạt động tín dụng ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, vận tải, cơ sở lưu trú, thông tin liên lạc góp phần giúp cho ngành thương mại, dịch vụ ngày càng phát triển. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ được tăng cường, thường xuyên kiểm tra chống hàng lậu, hàng giả và gian lận thương mại, góp phần đảm bảo cho môi trường kinh doanh ổn định, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và kích thích kinh tế phát triển.

Giai đoạn 2011-2015 đưa vào sử dụng tổng số 399 công trình, với tổng vốn ngân sách 1.856 tỷ đồng, vốn doanh nghiệp 3.680 tỷ đồng. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước do UBND tỉnh quyết định đầu tư 38 công trình với tổng giá trị thực hiện 1.402 tỷ đồng, ước giá trị thanh toán khối lượng thực hiện đến cuối năm 2015 là 1.398 tỷ đồng/1.402 tỷ đồng, đạt 99,6% theo kế hoạch vốn giao. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước do UBND huyện quyết định đầu tư 361 công trình với tổng giá trị thực hiện 454 tỷ đồng, ước giá trị thanh toán khối lượng thực hiện đến cuối năm 2015 là 450 tỷ đồng/454 tỷ đồng, đạt 99% theo kế hoạch vốn giao.

Toàn huyện có 896 km đường giao thông. Các trục giao thông chính gồm quốc lộ, tỉnh lộ và các tuyến đường liên xã cơ bản được nâng cấp láng nhựa; 100% xã, thị trấn có đường ô tô đến trung tâm. Có 245 km đường giao thông nông thôn do huyện quản lý đã được nhựa hóa.

Mạng lưới điện phủ kín khu dân cư tập trung trên địa bàn toàn huyện đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, có trên 99,6% số hộ dân được cấp điện sinh hoạt.

Sau 20 năm thành lập và phát triển, thị trấn Ngãi Giao cơ bản đạt các tiêu chí đô thị loại IV, xã Kim Long đạt các tiêu chí đô thị loại V.

Công tác lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm 2011 – 2015 được thực hiện đồng bộ cấp huyện và các xã, thị trấn. Việc thực hiện thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất tuân thủ theo đúng kế hoạch, quy hoạch đã được phê duyệt. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được tập trung chỉ đạo, đã cấp được 34.989,84 ha, đạt tỷ lệ 95,37% so với diện tích các loại đất thuộc đối tượng cần phải cấp giấy chứng nhận.

Chỉ đạo tăng cường kiểm tra và xử lý các trường hợp khai thác vật liệu san lấp không phép, trái phép, đồng thời kiểm tra và xử lý tình hình gây ô nhiễm môi trường đối với hoạt động sản xuất, chăn nuôi. Công tác lập và triển khai kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu được thực hiện nghiêm túc. Công tác quản lý tài nguyên nước, chất lượng nước sinh hoạt trong nhân dân ngày càng được cải thiện, tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch đạt 52%, tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 99%.

Công tác quản lý, chăm sóc diện tích rừng hiện có được thực hiện thường xuyên, độ che phủ cây xanh đến cuối năm 2015 đạt 65,34%.

Cơ sở vật chất ngành giáo dục và đào tạo được đầu tư đáp ứng nhu cầu dạy và học . Xây mới 12 trường học, hiện nay tất cả các xã, thị trấn cơ bản có đủ các trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở (còn trường tiểu học xã Bàu Chinh dự kiến xây và hoàn thành vào cuối năm 2015). Tỷ lệ học sinh đạt khá, giỏi trong rèn luyện, học tập và đạt thành tích trong các kỳ thi học sinh giỏi, thi đậu tốt nghiệp, đậu vào các trường đại học, cao đẳng hàng năm đều tăng. Công tác phổ cập giáo dục trẻ em mầm non 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập THCS được duy trì và đạt kết quả tốt. Dự kiến đến cuối năm 2015, tỷ lệ trẻ dưới 3 tuổi đi nhà trẻ đạt 31,6%, trẻ từ 3 – 5 tuổi đi mẫu giáo đạt 87,34%, huy động trẻ 6 tuổi nhập học đạt 100%. Học sinh hoàn thành chương trình tiểu học vào học THCS đạt 99,5% . Thanh, thiếu niên trong độ tuổi đã tốt nghiệp THCS vào học các trường THPT, bổ túc THPT, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đạt 99%. Dự kiến đến cuối năm 2015 có 36/72 trường đạt chuẩn Quốc gia, đạt tỷ lệ 50%.

Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, đời sống và quản lý Nhà nước được quan tâm. Thực hiện tốt việc ứng dụng các kỹ thuật cao trong chăn nuôi, trồng trọt; các ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công cũng có sự phát triển và chiều hướng tăng trưởng tích cực; công nghệ thông tin được áp dụng phục vụ công tác quản lý hành chính, dạy học và phát triển kinh tế – xã hội.

Hệ thống y tế, nhất là y tế cơ sở được tập trung củng cố về nhân sự, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, ngoài ra, hệ thống y tế tư nhân ngày càng phát triển cùng với y tế công lập thực hiện tốt công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Trên địa bàn huyện có 01 bệnh viện tỉnh (Bệnh viện Tâm thần), 01 phòng khám đa khoa tư nhân, Trung tâm Y tế huyện và 16 trạm Y tế xã, thị trấn. Trung tâm y tế huyện được công nhận bệnh viện đa khoa tuyến huyện hạng III với quy mô 80 giường bệnh thực hiện chức năng khám, chữa bệnh và y tế dự phòng, số bệnh nhân đến khám bình quân hàng năm 233.897 lượt. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các giải pháp phòng, chống dịch bệnh do đó không có dịch bệnh lớn và trường hợp tử vong. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe trẻ em có nhiều tiến bộ; công tác vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm và đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết quả giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 11%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,18%; tỷ lệ xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế 81,3%; tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ đạt 50%; số bác sỹ/10.000 dân đạt 3,2); trẻ dưới 01 tuổi được tiêm đầy đủ các loại vắc xin đạt 100%; mức giảm sinh con thứ ba trở lên đạt 1,2%; dân số trung bình đến năm 2015 là 154.310 người.

Trung tâm Văn hóa, Thông tin – Thể thao, Thư viện huyện, Trung tâm Văn hóa – Học tập cộng đồng các xã, thị trấn được đầu tư xây dựng mới, sửa chữa, nâng cấp, đầu tư trang thiết bị đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, vui chơi, giải trí của người dân. Các hoạt động văn hóa văn nghệ, thông tin tuyên truyền, giáo dục truyền thống đã phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Mức hưởng thụ văn hóa của người dân đạt 35,2 lần/người/năm; tỷ lệ người luyện tập thể dục thể thao thường xuyên đạt 30,1%/tổng số dân; tỷ lệ hộ gia đình thể thao đạt 24,1%/tổng số hộ. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được quan tâm triển khai thực hiện, đến năm 2015 có 94% số hộ đạt tiêu chuẩn văn hóa; số thôn, ấp, khu phố được công nhận danh hiệu văn hóa đạt 87,6%; 5/16 xã đạt danh hiệu văn hóa chiếm 31,25%.

Thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa và các chính sách an sinh xã hội. Trợ cấp kinh phí thường xuyên và 01 lần cho người có công và thân nhân số tiền 81,4 tỷ đồng. Xây 398 căn nhà đại đoàn kết, cấp 67.966 lượt thẻ BHYT; hỗ trợ vay vốn 2.705 hộ nghèo, bình quân 541 hộ/năm; tổ chức dạy nghề cho 4.033 lao động/115 lớp, bình quân 806 lao động/năm, trong đó đã giải quyết việc làm cho 2.400 học viên, bằng các nguồn lực tại địa phương đã giải quyết việc làm cho 22.500 lao động; tỷ lệ lao động xã hội qua đào tạo đạt 55% lao động xã hội. Tính đến cuối năm 2015, số hộ nghèo còn 612 hộ, chiếm tỷ lệ 2%.

Các chính sách về tôn giáo được thực hiện tốt, đa số các tu sĩ, chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo chấp hành nghiêm các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xử lý nghiêm, đúng pháp luật các trường hợp truyền đạo, xây dựng, cơi nới cơ sở thờ tự trái pháp luật. Thực hiện tốt công tác chăm lo ổn định đời sống và nâng cao dân trí cho đồng bào dân tộc như: Chương trình 135 giai đoạn II (2009-2015) với tổng số vốn đầu tư trên 75 tỷ đồng; chương trình phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (2010-2015) với tổng số vốn đầu tư trên 90 tỷ  đồng và các chính sách khác có liên quan; qua gần 5 năm thực hiện, có 03/04 xã đặc biệt khó khăn gồm xã Bàu Chinh, Sơn Bình, Cù Bị ra khỏi chương trình 135 và 11/14 xã ra khỏi khu vực xã khó khăn.

Đến Châu Đức, du khách có thể ghé thăm Tượng đài chiến thắng Bình Giã; Địa đạo Kim Long ghi dấu chiến công vang dội trong kháng chiến chống Mỹ trên vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu; Thắng cảnh Bàu Sen với khu rừng mọc trên vùng sình lầy quanh năm ngập nước. Trong rừng có nhiều loại gỗ quý chịu nước: bời lời, dâu nước, sao và bụi rậm dây leo: mây, song, tre… Bao quanh khu rừng là mảnh đất sình lầy rộng khoảng 10ha. Suối Tầm Bó bắt nguồn từ Cẩm Mỹ chảy ngang qua khu rừng cung cấp nước ngọt và các loại thuỷ sản: cá cua, ốc, lươn… sinh sôi nảy nở tạo nên kho thực phẩm thiên nhiên dồi dào rất hấp dẫn cho những chuyến du lịch dã ngoại, nơi đây cũng là căn cứ hoạt động cách mạng.

Năm 1983 Ủy Ban Nhân Tỉnh Đồng Nai đã ra quyết định 1050/QĐ-UBT xếp hạng bảo vệ di tính lịch sử khu căn cứ Bàu Sen. Đặc biệt với thắng cảnh thác Xuân Sơn du khách sẽ được hòa mình trong không khí trong lành, cảnh thiên nhiên rất thích hợp cho du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.

KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

– Châu Đức là một trong những huyện nông nghiệp của tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu, được thành lập năm 1994 theo nội dung Nghị định số 45/NĐ-CP (tháng 8 năm 1994 Nghị định Chính Phủ, trên cơ sở tách từ huyện Châu Thành). Huyện có 16 đơn vị hành chính (15 xã và 01 thị trấn) gồm Thị trấn Ngãi Giao và các xã như Quảng Thành, Cù Bị, Xà Bang, Láng Lớn, Bàu Chinh, Bình Ba, Suối Nghệ, Bình Trung, Bình Giã, Xuân Sơn, Sơn Bình, Suối Rao, Đá Bạc, Nghĩa Thành, Kim Long.

– Huyện có tổng diện tích đất tự nhiên là 42.104 ha với trên 150 ngàn dân, chiếm khoảng 22% dân số toàn tỉnh. Hầu hết dân cư sinh sống chủ yếu trên địa bàn sống tập trung dọc quốc lộ 56, đường liên huyện Mỹ Xuân-Ngãi Giao-Xuân Sơn và các trục đường liên xã.

– Từ một huyện nông nghiệp khi mới thành lập cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn nghèo nàn lạc hậu, trình độ dân trí còn thấp, đời sông vật chất tinh thần còn gặp nhiều khó khăn; sau 20 năm (1994-2014) xây dựng và phát triển đến nay bộ mặt Châu Đức đã  hoàn toàn đổi mới. Đời sống văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị  ngày một phát triển huyện đã dần dần hình thành các khu công nghiệp sản xuất chế biến với quy mô hiện đại, các công trình giao thông thủy lợi đang từng bước được đầu tư phục vụ đời sống của nhân dân; các hoạt động văn hóa văn nghệ được tổ chức ngày một đa dạng phong phú… Trong tương lai Châu Đức tiếp tục phấn dấu trở thành huyện có tiềm lực về kinh tế  với các thế mạnh sản xuất chế biến các sản phẩm nông nghiệp gắn liền với phát triển công nghiệp theo hướng “công nghiệp hóa – hiện đại hóa”.

Huyện Châu Đức có nhiều công trình di tích lịch sử để du khách có thể tham quan tìm hiểu bao gồm:

1/ Tượng đài Chiến thắng Bình Giả

Tượng đài chiến thắng Bình Giã nằm sát bên quốc lộ 56, thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đây là di tích đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số 2754-QĐ/BT, ngày 15 tháng 10 năm 1994. Khuôn viên tượng đài rộng 20.000m2, gồm vườn hoa, khu tượng đài, đền thờ và các công trình phụ… Thân tượng cao 26m, màu ghi sáng, đặt trên bệ đá hoa cương đen cao 3m với ba bàn tay nắm chặt đốc lê, phía trên là ba lưỡi lê vươn lên nền trời xanh. Hai bên tượng đài là hai bức phù điêu (dài 7m, cao 3m) được ghép từ hàng ngàn mảnh gốm màu Bát Tràng (Hà Nội).

Tượng đài chiến thắng Bình Giã là nơi ghi dấu chiến công vang dội trong kháng chiến chống Mỹ trên vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu.

Đây là di tích lịch sử cấp Quốc gia theo Quyết định số 961/QĐ.BT ngày 20 tháng 7 năm 1994 của Bộ Văn hóa và Thông tin.

Di tích lịch sử địa đạo Kim Long nằm ở thôn Tam Long, xã Kim Long. Hiện nay di tích đã được trùng tu các Ụ chiến đấu, đường địa đạo được trùng tu bằng vật liệu xi măng, đá…

Địa đạo Kim Long được xây dựng từ năm 1962 – 1964, dài 2000m cách mặt đất 5m, lòng rộng 0,8m, có nhiều nghách trú ẩn và 12 miệng lên xuống, đầu địa đạo đắp 3 ụ chiến đấu nối cách nhau theo hình tam giác mỗi cạnh 10m, xung quanh có lô Châu mai từ ụ chiến đấu thông với bên ngoài là hào công sự sâu 1,2m.

Từ năm 1962, lực lượng du kích dựa vào địa đạo và địa hình đánh trả, chặn đứng nhiều cuộc càn quét quy mô lớn gây cho địch nhiều thiệt hại nặng nề tại khu vực lòng chảo Kim Long, bảo vệ giữ vững cơ sở cách mạng củng cố và phát triển lực lượng du kích.

Địa đạo Kim Long là chứng tích lịch sử khẳng định tinh thần ý chí chiến đấu dũng cảm ngoan cường một lòng theo Đảng, Bác Hồ của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất tổ quốc.

Địa đạo Kim Long là chứng tích lịch sử quan trọng, khẳng định tinh thần, ý chí chiến đấu dũng mãnh của quân và dân ta trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Hiện nay, ngoài tấm bia di tích khắc ghi công trạng, ý nghĩa lịch sử của di tích là còn lành lặn tươm tất, các phần còn lại của địa đạo đã bị xuống cấp.

3/ Khu tưởng niệm Trung đoàn E33:

Trung đoàn 33, đơn vị Anh hùng LLVTND được chính thức thành lập vào ngày 15/2/1965, tiền thân là Trung đoàn 101 và Sư đoàn 325 Bình Trị Thiên. Trong suốt quá trình chiến đấu, trung đoàn 33 đã có mặt trên khắp các chiến trường Tây nguyên, Miền Đông Nam bộ đặc biệt là chiến trường Bà Rịa – Long Khánh. Ngay tại xã Bình Ba, huyện Châu Đức ngày nay, trong cuộc chiến đấu giải phóng Bình Ba chiến dịch 1969, 53 cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn đã anh dũng hy sinh, hài cốt của các anh dù đã được đưa về nghĩa trang liệt sĩ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nhưng nhân dân địa phương vẫn tiếp tục thờ cúng tưởng nhớ các anh.

– Khu tưởng niệm Trung đoàn E33 thuộc địa phận xã Bình Ba, khu tưởng niệm các Liệt sĩ Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 33 là di tích lịch sử cách mạng ghi nhận sự kiện hy sinh anh dũng của 53 cán bộ, chiến sĩ trong trận đánh ác liệt giải phóng Bình Ba (ngày 06/6/1969). Ngày 16/5/2012 UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đã trao Quyết định số 931/QĐ-UBND về việc xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh đới với khu tượng niệm này.

4/ Bia tưởng niệm liệt sĩ Trung đoàn 4:

Ngày 3/3/1965, Trung đoàn 4 được thành lập theo quyết định của Bộ Tư lệnh miền Nam tại chiến khu D và nhiệm vụ tham gia tác chiến trên chiến trường Đông Nam bộ. Suốt chặn đường chiến đấu, Căn cứ địa và nhiều trận đánh của Trung đoàn 4 gắn liền với tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ 1965 – 1975 và chiến sĩ của Trung đoàn đã cùng nhân dân các xã trên địa bàn tỉnh không ngừng mở rộng vùng căn cứ, bám đất, bám làng để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.

Để ghi nhớ sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ Trung đoàn 4 anh hùng, ngày 31/5/2011, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bà Ria- Vũng Tàu đã ra thông báo xây dựng bia tưởng niệm Trung đoàn 4.

Bia tưởng niệm liệt sĩ Trung Đoàn 4 thuộc địa phận xã Xà Bang, có  tượng đài cao 10 m, được xây dựng bằng những 52 tảng đá granit xanh, mỗi tảng nặng từ 6 – 7,5 tấn. Công trình được tiến hành xây dựng năm 2011 và hoàn thành năm 2013, hiện nay đã được các cấp chính quyền quan tâm chăm sóc bảo vệ di tích này.

5/ Khu di tích lịch sử cách mạng, khu căn cứ Bàu Sen:

– Di tích lịch sử cách mạng Rừng Bàu Sen thuộc địa phận Ấp Bàu Sen, xã Xà Bang.  Đây là di tích lịch sử cách mạng được UBND tỉnh công nhận là di tích cấp tỉnh với diện tích rừng khoảng 63 ha.Các hạng mục công trình tôn tạo, phụ trợ di tích gồm 01 bia ghi nội dung giới thiệu về di tích, kết cấu trụ BTCT giả gỗ, móng đá hộc, gắn đá trang trí, tường gạch phun sơn giả đá, mặt ghi nội dung ốp đá granit…Đây cũng là nơi để du khách ghé tham quan về sinh thái du lịch.

– Đến Châu Đức, du khách có thể ghé thăm:

+ Tượng đài chiến thắng Bình Giã, tọa lạc trên quốc lộ 56, thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức.

+ Địa đạo Kim Long ghi dấu chiến công vang dội trong kháng chiến chống Mỹ, tọa lạc xã Kim Long, huyện Châu Đức.

+ Thắng cảnh Bàu Sen với khu rừng mọc trên vùng sình lầy quanh năm ngập nước. Suối Tầm Bó bắt nguồn từ Cẩm Mỹ, Đồng Nai chảy ngang qua khu rừng cung cấp nước ngọt với các loại thủy sản: cá, cua, ốc, lươn,… sinh sôi nảy nớ tạo nên kho thực phẩm thiên nhiên dồi dào rất hấp dẫn cho những tour du lịch dã ngoại, nơi đây cũng từng là căn cứ hoạt động cách mạng.

+ Thác Xuân Sơn là một điểm du lịch còn chưa được khai thác của huyện Châu Đức, Bà rịa vũng tàu, trong tương lai đây sẽ là nơi nghỉ ngơi, du lịch sinh thái của du khách, nhất là với lứa tuổi thanh niên, học sinh, sinh viên. Thắng cảnh thác Xuân Sơn du khách sẽ được hòa mình trong không khí trong lành, cảnh thiên nhiên rất thích hợp cho du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.