Ở cuối thời nhà Thanh (Trung Quốc), nhiều nhiếp ảnh gia phương Tây đã đến và văn hoá chụp ảnh cũng đã du nhập vào đất nước vẫn đang ở thời kỳ phong kiến này. Qua những bức ảnh đen trắng cũ kỹ, cuộc sống hàng ngày, nếp sinh hoạt của người dân trong thời kỳ đó được khắc hoạ một cách chân thực và sống động nhất. Đồng thời, thông qua những hình ảnh đó, hậu thế cũng có được cái nhìn trực quan hơn về cảnh đón Tết Nguyên Đán của người Trung Quốc xưa kia.
Ở cuối thời nhà Thanh (Trung Quốc), nhiều nhiếp ảnh gia phương Tây đã đến và văn hoá chụp ảnh cũng đã du nhập vào đất nước vẫn đang ở thời kỳ phong kiến này. Qua những bức ảnh đen trắng cũ kỹ, cuộc sống hàng ngày, nếp sinh hoạt của người dân trong thời kỳ đó được khắc hoạ một cách chân thực và sống động nhất. Đồng thời, thông qua những hình ảnh đó, hậu thế cũng có được cái nhìn trực quan hơn về cảnh đón Tết Nguyên Đán của người Trung Quốc xưa kia.
Lưu ý: Các số liệu trong biểu đồ và bảng bên dưới được lấy theo mốc thời gian ngày 1 tháng 7 hằng năm, có chút khác biệt với các số liệu ở trên.
Dữ liệu được hiệu chỉnh theo phép sinh trung bình, Phòng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc.
Dữ liệu được hiệu chỉnh theo phép sinh trung bình, Phòng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc.
Mật độ dân số của Triều Tiên là 218 người trên mỗi kilômét vuông tính đến 12/12/2024. Mật độ dân số được tính bằng cách lấy dân số của Triều Tiên chia cho tổng diện tích đất của đất nước. Tổng diện tích là tổng diện tích đất và nước trong ranh giới quốc tế và bờ biển của Triều Tiên. Theo Tổng cục Thống kê Liên Hợp Quốc, tổng diện tích đất của Triều Tiên là 120.387 km2.
Tính đến đầu năm 2017 theo ước tính của chúng tôi, Triều Tiên có phân bố các độ tuổi như sau:
Số liệu dân số theo độ tuổi (ước lượng):
Chúng tôi đã chuẩn bị một mô hình đơn giản hóa của tháp dân số được chia thành 3 nhóm tuổi chính. Các nhóm giống như chúng ta đã sử dụng ở trên: dân số dưới 15 tuổi, từ 15 đến 64 tuổi và dân số từ 65 tuổi trở lên.
Tỷ lệ dân số phụ thuộc là tỷ lệ của những người không có khả năng lao động (người phụ thuộc) trên lực lượng lao động của một quốc gia. Phần phụ thuộc bao gồm dân số dưới 15 tuổi và người từ 65 tuổi trở lên. Lực lượng lao động bao gồm dân số từ 15 đến 64 tuổi.
Tổng tỷ lệ dân số phụ thuộc ở Triều Tiên năm 2022 là 43,4%.
Tỷ lệ trẻ em phụ thuộc là tỷ lệ người dưới độ tuổi lao động (dưới 15 tuổi) so với lực lượng lao động của một quốc gia.
Tỷ lệ trẻ em phụ thuộc ở Triều Tiên là 28,3%.
Tỷ lệ người cao tuổi phụ thuộc là tỷ lệ người trên độ tuổi lao động (65+) so với lực lượng lao động của một quốc gia.
Tỷ lệ người cao tuổi phụ thuộc ở Triều Tiên là 15,1%.
Tuổi thọ là một trong những chỉ số nhân khẩu học quan trọng nhất. Nó cho biết thời gian từ lúc một người được sinh ra cho đến khi chết đi.
Tổng tuổi thọ (cả hai giới tính) ở Triều Tiên là 73,7 tuổi.
Con số này cao hơn tuổi thọ trung bình của dân số thế giới (72 tuổi).
Tuổi thọ trung bình của nam giới là 71,1 tuổi.
Tuổi thọ trung bình của nữ giới là 76,3 tuổi.
Theo ước tính của chúng tôi đến năm 2017 có 19.689.482 người hoặc 100,00% dân số trưởng thành (từ 15 tuổi trở lên) ở Triều Tiên có thể đọc và viết.
⚠ Báo lỗi số liệu không khớp, sai, ...
Số liệu Dân số trong bảng và biểu đồ dân số Triều Tiên (1955 - 2020) qua các năm được lấy vào thời điểm ngày 1 tháng 7 của mỗi năm. Thời điểm mới nhất, nếu chưa đến ngày 1 tháng 7 thì đó là số liệu ước tính.
Các số liệu như: Thay đổi, % thay đổi, di cư, tỷ lệ sinh,... trong hai bảng dân số là số liệu trung bình theo chu kỳ 5 năm.
Số liệu Tỷ lệ gia tăng dân số trong biểu đồ tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm là tỷ lệ phần trăm dân số tăng hàng năm dựa trên số liệu dân số vào ngày 1 tháng 7 của mỗi năm, từ năm 1951 đến năm 2020. Giá trị này có thể khác với % Thay đổi hàng năm thể hiện trong bảng dân số qua các năm, thể hiện tỷ lệ thay đổi trung bình mỗi năm trong 5 năm trước đó.
Di cư: hay Di dân là sự thay đổi chỗ ở của các cá thể hay các nhóm người để tìm chỗ ở tốt hơn, phù hợp hơn nơi ở cũ để định cư (từ quốc gia này đến quốc gia khác). Di cư bao gồm: Nhập cư (những người đến để định cư) và Xuất cư (những người rời khỏi để định cư ở một 'quốc gia' khác).
Nguồn: Số liệu trên danso.org được xây dựng dựa theo các số liệu và ước tính của Liên hợp quốc.
Phát biểu khai mạc Hội nghị, đồng chí Tống Thanh Hải – Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, Trưởng Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh khẳng định: Tổng điều tra dân số và nhà ở là một trong ba cuộc Tổng điều tra thống kê Quốc gia được quy định trong Luật Thống kê. Quán triệt các văn bản chỉ đạo của Trung ương, ngay từ khi bắt đầu công tác chuẩn bị cho Tổng điều tra, tỉnh Lai Châu đã chủ động thực hiện nghiêm túc các hướng dẫn về công tác chuyên môn, tuyên truyền về Tổng điều tra và các quy định trong phương án Tổng điều tra để hoàn thành việc điều tra theo đúng kế hoạch. Đặc biệt việc ứng dụng công nghệ trong giai đoạn thu thập thông tin tại địa bàn giúp nâng cao chất lượng, minh bạch quá trình sản xuất thông tin thống kê và rút ngắn thời gian công bố kết quả cuộc Tổng điều tra.
Đ/c Tống Thanh Hải - Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh phát biểu tại Hội nghị
Trên cơ sở báo cáo quá trình Tổng điều tra tại Hội nghị, đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh đề nghị các thành viên trong Ban chỉ đạo tỉnh và Ban chỉ đạo các huyện, thành phố, các đại biểu dự Hội nghị tập trung đánh giá các mặt đã đạt được, những mặt còn tồn tại để tìm ra nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện các cuộc Tổng điều tra lần sau.
Báo cáo Tổng kết công tác Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của tỉnh cho thấy: Cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 tại tỉnh Lai Châu được thực hiện từ 0 giờ ngày 1/4/2019 đến ngày 25/4/2019. Sau hơn 2 tháng kết thúc triển khai thu thập thông tin tại địa bàn, công tác xử lý và làm sạch số liệu đã hoàn thành vào đầu tháng 7 (sớm hơn so với cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009 khoảng 1 năm).
Kết quả sơ bộ cho thấy, trải qua 10 năm quy mô dân số của tỉnh tăng hơn so với giai đoạn 10 năm trước; tỷ lệ tăng dân số tăng cao so với toàn quốc song vẫn được kiểm soát. Cụ thể, dân số toàn tỉnh vào thời điểm 1/4/2019 là 460.196 người, trong đó dân số nam là 233.097 người, dân số nữ 227.099 người. Với kết quả này Lai Châu là tỉnh đông dân thứ 62/63 tỉnh thành trong cả nước. Sau 10 năm, kể từ 2009 đến nay quy mô dân số của tỉnh tăng thêm 89.694 người; tỉ lệ tăng dân số bình quân giai đoạn 2009-2019 là 2,17%/năm; tỷ số giới tính là 102,6 nam/100 nữ.
Kết quả của tổng điều tra 2019 cũng cho thấy Lai Châu là tỉnh có mật độ dân số thấp nhất so với cả nước. Năm 2019 mật độ dân số của tỉnh là 51 người/km2 (tăng 10 người/km2 so với năm 2009), trong đó thành phố Lai Châu là địa phương có mật độ dân số cao nhất (năm 2019 là 590 người/km2 tăng so với 2009 là 211 người/km2). Cũng từ năm 2009 đến nay, tỷ trọng dân số khu vực thành thị tăng 4,4 điểm phần trăm.
Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh đã tác động đến quá trình phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động; trình độ dân trí đã được cải thiện; Theo kết quả sơ bộ, có khoảng 82,5% dân số trong độ tuổi đi học phổ thông đang đi học và có sự khác biệt về tình trạng không đi học của học sinh ở khu vực thành thị với nông thôn. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết tăng mạnh, hầu hết trẻ em trong độ tuổi đi học phổ thông đang được đến trường, tỷ lệ trẻ em ngoài nhà trường giảm mạnh. Về số hộ dân cư, toàn tỉnh có 101.010 hộ (tăng 24.030 hộ so với cùng thời điểm năm 2009). Điều kiện nhà ở của các hộ dân cư đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt ở khu vực thành thị.
Tham luận tại Hội nghị, các đại biểu chia sẻ những thuận lợi, khó khăn, đánh giá rõ hơn những mặt đã đạt được, những tồn tại, nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình thực hiện cuộc Tổng điều tra tại địa bàn như: Công tác lãnh đạo chỉ đạo đóng vai trò quyết định, sự vào cuộc quan trọng của các ban ngành đoàn thể, đa dạng hóa công tác tuyên truyền, tuyển chọn đội ngũ điều tra viên có chất lượng, có sự kiểm tra giám sát liên tục trong quá trình thực hiện…
Các cá nhân có thành tích xuất sắc trong câng tác điều tra dân số và nhà ở năm 2019 được nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh
Tại Hội nghị, 14 tập thể, 52 cá nhân được nhận Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh; 25 tập thể, 100 cá nhân được nhận Giấy khen của Cục Trưởng Cục Thống kê tỉnh vì đã có thành tích xuất sắc trong chỉ đạo, thực hiện Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.